Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và hải quan của Việt Nam trong hiệp định TPP
Chiều nay, ngày 9/11, Bộ Tài chính đã công bố
các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo đó, Việt Nam cam kết 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định
có hiệu lực và tiến tới xóa bỏ 97,8% số dòng thuế vào năm thứ 11 kể từ khi Hiệp
định có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộ
trình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoặc theo hạn ngạch thuế quan. Bên
cạnh đó, Việt Nam có những cam kết chặt chẽ trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và
hải quan.
|
Ông Vũ Nhữ Thăng - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Tài chính
trả lời họp báo về Hiệp định TPP
|
Hiệp định TPP là một Hiệp định theo mô hình FTA thế hệ mới không
chỉ tập trung vào tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn mở rộng
đối với lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài chính.
Các nước TPP phải cam kết tuân thủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo
cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu
có chọn lọc. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm
cam kết đối với dịch vụ chứng khoán và bảo hiểm
Các cam kết thuộc Chương dịch vụ tài chính của Hiệp định TPP tạo
ra 3 thành tố cơ bản hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch
vụ tài chính ở Việt Nam gồm: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm
với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài; (ii) Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích
của các nhà đầu tư; (iii) Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện
pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định. Cụ thể
như sau:
Về mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh
bạch hóa: So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số
loại hình dịch vụ mới nhằm tạo cơ hội tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài như: (i) mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới;
(ii) dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài
đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư
vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự
doanh hoặc tài khoản của khách hàng; (iii) mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu
tư qua biên giới.
Về cơ chế bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài: Mở cửa thị trường dịch
vụ tài chính kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư thông qua việc bổ sung các nghĩa
vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên
tắc đối xử tối thiểu đối với nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó, cơ chế
giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ: Nhà nước và Nhà
nước và Nhà đầu tư và Nhà nước, đặc biệt cơ chế Nhà đầu tư với Nhà nước cho
phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Quy
trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng, cụ thể đảm bảo tính minh
bạch, có hiệu quả.
Về việc đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp
quản lý thận trọng cho các nước: TPP cho phép các nước áp dụng các ngoại lệ cần
thiết, tạo ra không gian chính sách gồm các biện pháp thận trọng, các biện pháp
bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá,
tiền tệ nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, an toàn.
Bên cạnh đó, TPP ràng buộc nghĩa vụ các nước thành viên phải
tuân thủ nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” trong việc điều hành chính sách đối
với các ngành dịch vụ, theo đó nếu Việt Nam điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp
luật trong nước theo hướng tự do hóa hơn, thông thoáng hơn so với mức cam kết
ban đầu thì sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc, không được ban hành chính
sách quay trở lại mức cam kết ban đầu. Bên cạnh đó, các nước TPP phải đảm bảo
thực hiện các quy trình thủ tục cấp phép nhanh chóng và thuận tiện, tuân thủ
thời gian phê duyệt hồ sơ cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài không quá 120
ngày.
Các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán được kỳ vọng sẽ
tạo điều kiện
thúc đẩy các cơ hội đầu tư, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài
chính ở Việt Nam.
Chương cam kết về Hải quan bao gồm 12
Điều, trong đó quy định các cam kết về nghiệp vụ chính như: Quy định về
thời gian giải phóng hàng chuyển phát nhanh trong vòng 6 tiếng; quy định về cơ
chế ban hành xác định trước đối với các lĩnh vực mã số, phương pháp xác định
trị giá và xuất xứ hàng hóa, cơ chế giám sát đối với xuất xứ hàng hóa; quy định
cụ thể về thời gian giải phóng hàng hóa trong vòng 48 tiếng khi hàng hóa
nhập cảnh hải quan và có cơ chế cho phép thông tin được xử lý bằng phương
thức điện tử trước khi hàng đến nhằm nhanh chóng giải phóng hàng; quy định
quản lý rủi ro... Riêng đối với quy định về trị giá tối thiểu vẫn thực hiện
theo luật của quốc gia.
Một vấn đề mà Hiệp định TPP tác động lớn đến công tác quản lý
hải quan là quy định cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong thủ tục kiểm tra và
xác định xuất xứ cho hàng hóa xuất nhập khẩu với thời gian chuyển đổi tối đa 10
năm. Cơ chế này cho phép doanh nghiệp tự khai báo xuất xứ cho hàng hóa
của mình thay cho cách thức quản lý hiện tại là doanh nghiệp phải nộp cho
cơ quan hải quan giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất
khẩu cấp. Điều này tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu
và đơn giản hóa thủ tục hải quan. Hiện nay trong khuôn khổ ASEAN, Việt
Nam đang tham gia thực hiện thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ là một bước
quan trọng chuẩn bị cho công tác triển khai sau này./.